Trong lịch sử, Việt Nam có bao lăm cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lăng là có bấy nhiêu lần quân xâm lăng cậy có quân đông, khí giới mạnh đều đánh giá thấp Việt Nam và do đó, giá phải trả như thế nào chúng ta đã rõ. Vị thế Việt Nam Trong tình hình găng trên Biển Đông, kết quả chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang theo lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ B. Obama vừa qua đã khiến cho giới quan sát, phân tích ngỡ ngàng. Bạn bè trên thế giới cũng như dân chúng Việt Nam quan hoài đặc biệt. Mối quan hệ “đối tác toàn diện” giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã khẳng định Việt Nam không theo ai để gây áp lực với ai cả. Quan hệ với Hoa Kỳ là cố nhiên của một nhà nước chưa phát triển đối với một cường quốc thế giới, là ích lợi quốc gia Việt Nam. Quan hệ với Việt Nam cũng vì lợi. Của Hoa Kỳ tại châu Á-TBD, dĩ nhiên Hoa Kỳ chẳng vì một điều gì hết, thứ gì hết nếu điều đó ảnh hưởng, ngăn cản đến lợi. Quốc gia. Lợi ích quốc gia của Việt Nam cũng như của Hoa Kỳ là trên hết. Rõ ràng đây là mối quan hệ đồng đẳng 2 bên đều có lợi trên cơ sở coi trọng chế độ chính trị, chủ quyền của nhau…và chỉ có thể được xác lập trên cơ sở vị thế của 2 bên mà trong đó Hoa Kỳ được xác định là một cường quốc hàng đầu châu Á-TBD. Cố nhiên, thành ra, vị thế của Việt Nam trong khu vực, trong đánh giá của Hoa Kỳ chí ít là khá quan trọng. Vị thế đó đủ để Việt Nam triển khai một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, bình đẳng, tất cả vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Sức mạnh quân sự Việt Nam Từ xưa tới nay, khi so sánh thực lực, khí giới trang bị (VKTB) của Việt Nam với các đối tượng xâm lăng như “châu chấu đá voi” nên không có gì phải bàn và…so sánh gì ở đây cả. Vấn đề là sức mạnh quân sự của một đội quân đi xâm lược và sức mạnh quân sự của một đội quân phòng ngự bảo vệ đất nước do tính chất khác nhau, điều kiện để phát huy sức mạnh thực từ lực, VKTB khác nhau, chiến thuật khác nhau…do đó sức mạnh thật sự, thực thụ sẽ có sự khác nhau. Đây là những nội dung mà ta cần so sánh, đánh giá, nhưng chỉ thuần tuý là sức mạnh quân sự mà không tính đến nguyên tố sức mạnh khác như tinh thần hay ý chí, bản lĩnh, trí tuệ… Rõ ràng đội quân xâm lăng luôn có lực lượng hùng hậu, VKTB đương đại tiên tiến, nhưng khi tiến hành chiến tranh chúng chẳng thể mang hết vơ để dùng như trong lý thuyết. Trong chiến tranh với Mỹ, Mỹ bắt chỉ dùng một phần lực lượng để tham chiến ở miền Nam Việt Nam (Tuy nhiên, trước nguy cơ thất bại, leo thang chiến tranh là thực chất ngoan cố, tàn ác của quân xâm lược, nhưng đây là “tập 2” của cuộc chiến mà có dịp chúng ta bàn sau) Với Việt Nam, lực lượng tuy ít nhưng VKTB tiền tiến hiện đại không bị thua kém nhiều lại đặt trong một thế trận có lợi nên có thể biến ít thành nhiều, biến không thành có. Chẳng hạn, để tiến công đánh chiếm một hòn đảo của Việt Nam (dĩ nhiên là rất gần Việt Nam và sẽ rất xa với địch) thì địch sẽ rất cần tàu sân bay, ngược lại Việt Nam có rất nhiều “hàng không mẫu hạm không thể đánh chìm”. Việt Nam chưa có vệ tinh quân sự để trinh sát viên khắp thế giới nhưng có những vị trí để do thám kỹ thuật đủ để trùm khu vực cần quan tâm. Có loại máy bay tiêm kích nào có thể tác chiến trên một khu vực ngoài tầm bay? Không có! Nhưng khi có hàng không mẫu hạm hay khi có tàu bay tiếp dầu thì chúng lại có thể. Do đó, địch mua sắm, chế tạo tàu sân bay, SU-35, tàu đổ bộ cỡ lớn…chỉ là đáp ứng đề nghị tác chiến chứ không phải, chẳng thể, không hẳn để chiếm được ưu thế tác chiến. Do khu vực tác chiến rất xa cứ do vậy chiến thuật của địch phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ và thiếu sự sáng tạo. Đây là mặt hạn chế giống như “mặt sau tấm huy chương” của bất kỳ lược lượng xâm lăng, viễn chinh nào. Việt Nam hoạt động tác chiến với địch trên “sân nhà” nên giữa VKTB và chiến thuật có sự gắn kết bền chặt, thậm chí có những điều công nghệ không thể thì chiến thuật có thể. Khu vực tác chiến chỉ trong phạm vi của tổ quốc nên chiến thuật ít phụ thuộc vào công nghệ do đó có nhiều cách tuyển lựa kết hợp với công nghệ. Đối phương có SU-35 hay SU-50 đi nữa, có tàu chiến bắn xa hàng trăm km…thì Việt Nam có cách đánh khác nên VKTB Việt Nam không nhất thiết cũng phải như vậy. Khi đối phương có chiến hạm bắn xa hàng trăm km thì vấn đề của chúng ta không phải là làm sao phải có chiến hạm hao hao mà là làm sao với địa hình địa lợi sẵn có, tổ chức, bố trí lực lượng ra sao, chiến thuật gì để chiến hạm có tầm bắn ngắn hơn vẫn đánh được và đánh thắng chúng. Có thể thấy hiện chưa bao giờ quân đội Việt Nam được chuẩn bị kỹ càng mọi mặt, sẵn sàng để bảo vệ giang sơn một cách tĩnh tâm, tự tín như thế. Tuy nhiên, quy luật của chiến tranh là “mạnh được yếu thua”, sức mạnh quân sự không phải là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp trong chiến tranh. Sức mạnh tổng hợp đó có được từ vị thế giang san, từ sức mạnh ý thức và sức mạnh quân sự. Lê Ngọc Thống |