Tôi khóc cười qua những trang sách, kinh ngạc thấy mình qua những cảm xúc mà trên thực tiễn tôi chưa đủ lớn để trải nghiệm ngoài đời. Chú tôi lại thích kể chuyện Tôn Ngộ Không, Na Tra và một số chuyện trong Nghìn lẻ một đêm như Aladin và cây đèn thần, Alibaba và 40 tên cướp.
Bà tôi và chú tôi kể mãi cũng hết chuyện. Lúc đó, tôi ba, bốn tuổi, những câu chuyện đã vẽ ra trong trí não non tơ như tờ giấy trắng của tôi những gam màu tuyệt đẹp.
Ba tôi đi làm xa nên những câu chuyện trước tiên tôi nghe được là từ bà tôi và chú tôi. Rồi tôi tìm đến Vô gia đình của Hector Malot, Những kẻ khốn nạn của Victor Hugo.
Trong những buổi tặng chữ ký cho bạn đọc nhân dịp ra sách mới, tôi luôn xúc động khi nhìn thấy cảnh bà dắt cháu hay ba mẹ dắt con tới chỗ tôi ngồi.
Từ xưa, chúng ta vẫn nói “thú đọc sách” đó thôi. Bằng những câu chuyện kể.
Chính những người lớn tuyệt đó đã đắp nên con đường đầy hoa lá cho trẻ nít đặt chân. Bao giờ cũng vậy, tôi luôn bắt gặp mình cảm động khi trông thấy một em bé ngồi say sưa đọc sách.
Bà tôi kể tôi nghe chuyện Tấm Cám, Thạch Sanh, Cây tre trăm đốt, Đôi hia bảy dặm. Thói quen đọc sách là sự nối dài nếp nghe chuyện dưới hình thức chủ động, như vậy, đã hình thành một cách tự nhiên với một đứa trẻ. Đó là một hành vi, một nhu cầu như chạy nhảy, bơi lội, đùa nghịch, hát hò, vạ. Chúng gieo vào đầu tôi những hình ảnh mới mẻ, một thế giới nhóng nhánh màu sắc, làm dậy lên những nỗi hồi hộp, lo âu, mừng vui qua số gập ghềnh của cô Tấm, những kiếp nạn của thầy trò Đường Tăng.
Từ khi nghe chú tôi mách những câu chuyện đó và ti tỉ những câu chuyện hao hao được chứa trong các cuốn sách, tôi cố kỉnh học chữ để có thể tự mình khám phá thế giới kỳ diệu kia. Con trẻ đến với sách đầu tiên vì niềm vui. Để rồi em lớn lên, đi đâu về đâu, quán xá, tàu xe, dọc hạ gió bụi hay trong giờ nghỉ giữa sở làm, sách vẫn trong tay.
Hình ảnh đó khiến tôi nhớ đến bà tôi và chú tôi, những người đã in dấu lên trí não tôi thuở ban sơ bằng những câu chuyện đầu đời đẹp đẽ. Các em đọc sách là do thú nhận chứ không phải do bổn phận.
Ngay cả khi lớn lên, đọc sách với tâm thế của nhà nghiên cứu thì trước khi khai quật các vỉa chữ bằng thao tác khoa học, tôi tin hình thức tiếp cận trước tiên với sách của nhà nghiên cứu lỗi lạc đó vẫn là thái độ thú thơ trẻ của đứa bé năm xưa. Dúi cuốn sách vào tay một đứa trẻ 14, 15 tuổi trước nay chưa từng được nghe chuyện, chưa từng rờ tới sách, suốt ngày chỉ quen cắm mắt vào game trên máy tính, ép em đọc, vì những lý do cao cả “khám phá kho báu tri thức” hay “nâng cao văn hóa đọc” như người lớn vẫn hay nói là một việc quá muộn mằn, vì vậy quá nhọc nhằn, giống như ép một người chuyển tàu bay khi phi cơ đang ở trên không.
# Nhường kia. Em bé đó, trông một ngày nào vớ chúng ta sẽ bắt gặp trong chính nhà mình! NGUYỄN NHẬT ÁNH. Nó cũng như thú câu cá, thú đánh cờ, thú chơi tem - hoàn toàn tự nguyện. Đó là lý do tại sao trông em hạnh phúc, náo nức và tin tưởng. Tám, chín tuổi, tôi đã mày mò đọc hết rương truyện Tàu của ông thợ húi trong làng.
Sách, như vậy, đã bồi đắp tâm hồn, làm giàu có và làm trưởng thành tình cảm một đứa bé, mài sắc một cách thiên nhiên các ý niệm đạo đức qua sự yêu ghét với người hiền kẻ ác, và đặc biệt mở rộng đến vô bờ lãnh thổ của trí nhớ tượng.
Bằng những cuốn sách làm quà. Người bạn đó đang thay thế ba mẹ, anh chị hay người bà, người chú của em để tiếp kiến kể cho em những câu chuyện vô tận về tình ái và cuộc sống.
Nhưng hạt giống của nếp đó phải được và phải có ai gieo trồng trong đầu đứa trẻ đó từ thuở thơ ấu. Cũng lạ, tiếng bà kể trong đêm nằm đâu nghe cũng rõ, nhưng đứa nào cũng thích được nằm cạnh bà, như thể chạm vào bà thì hình ảnh trong các câu chuyện sẽ lung linh hơn.
Khi tôi học lớp 9, đã đọc được nhiều sách, tới lượt các đứa em nhỏ của tôi lại tranh nhau nằm gần tôi vào những buổi tối, lao nhao: “Anh Hai kể chuyện đi, anh Hai!”.
Bảy tuổi, tôi mê mẩn với những cuốn Cái ấm đất, Ông đồ bể trong tủ sách Hồng do ba tôi mua về.
Để nhu cầu đọc sách nảy mầm và trở thành một thèm khát thiên nhiên, như cỏ cây khát ánh sáng và khí trời. Em đến với sách hồn nhiên như đến với một người bạn.