Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Mắm lạ lẫm Hàm Hương.

Cảnh Dương được coi là dân Kiến Nghĩa, Đạo dẫn đường dưới triều Lê Trịnh, họ đã phải sung lính, chuyển vận lương thực, dẫn đường vượt biển trong các cuộc chiến ở thế kỷ XVII

Mắm Hàm Hương

Do vậy, dân làng Cảnh Dương thường nói: Ăn mắm Hàm Hương, thương nhớ ông Cống Đến với Cảnh Dương giàu đẹp hôm nay, người ta không quên một thuở Cồn Dưa, Lòi mắm và câu chuyện mang hương vị của mắm Hàm Hương như nhắc đến một nhân cách, một tấm lòng của người Cảnh Dương trong những ngày gian khó. Cổng làng Cảnh Dương bữa nay. Một hôm, nhân lúc quan lớn vui vẻ ông lựa lời thưa bẩm: - Bẩm quan lớn, con hồ cụ cũng đã lâu, nay trong nhà có việc xin cụ lớn cho con về dăm bữa nửa tháng.

Được cá rồi lại lo làm mắm và phải còn sắm sửa thuyền ghe, lo tiền gạo cho người chở mắm vượt biển ra cung tiến ở tận Thăng Long. Không chỉ có vậy, Cảnh Dương còn hăng hái tiếp viện cho các chiến trận trong cả nước. Có việc gì cần ta sẽ giúp. Phàm làm việc gì khăng khăng phải nói lời công minh, không được suy bì riêng tư, không được cường hào mà phóng túng".

Khi người anh hùng áo vải Tây Sơn ra Bắc, người Cảnh Dương đã góp nhiều công sức cho cuộc tiến quân tiến về Thăng Long xoá sổ tập đoàn phong kiến họ Trịnh, hợp nhất giang san. - Con cứ nói tiếp đi. Trước khi về xin cụ giúp cho một việc, nếu được dân làng con muôn lần đội ơn. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Cảnh Dương là Làng đương đầu kiểu mẫu đánh lui nhiều đợt tiến công của quân địch tạo điều kiện mở rộng chiến tranh du kích ở vùng Bắc Quảng Bình.

Đánh bắt được cá Hàm Hương đã khó, việc chế biến thành mắm cũng khá công phu, phức tạp, chỉ các bà, các chị có tay nghề thạo mới chế biến được thứ mắm vừa thơm lại vừa ngon, không nơi nào có được. Tháng 4 năm Mậu Tuất (1658) các vị tiền khẩn họp lại đặt tên làng là Cảnh Dương. Dẫn dân đến xứ Lòi Mắm.

Nghe vị quan lớn khích lệ như cởi tấm lòng, ông Cống Huy kể lại cho chủ nghe nổi cực khổ của dân làng Cảnh Dương trong việc cống tiến mắm Hàm Hương. Nói đến đây, ông ngập ngừng. Theo Báo Quảng Bình. Đến Cảnh Dương, nghe câu chuyện cổ về Mắm Hàm Hương mà lòng cứ thương nhớ.

Bản anh hùng ca của vùng đất Cảnh dương đã góp phần viết nên trang sử hào hùng của quê hương, đất nước. Nằm bên núi Phượng, sông Loan, làng biển Cảnh Dương như một chiếc thuyền neo bình yên bên bờ biển biếc. Chuyện kể rằng,vào đời Hậu Lê, Triều đình sức cho dân làng Cảnh Dương mỗi năm phải dâng tiến vua hai trăm chỉnh mắm Hàm Hương, loại mắm đặc biệt được làm bằng một loại cá nhỏ, quý hiếm ở cửa sôn Roòn gọi là cá Hàm Hương.

Sống trong thời đại của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, ngay từ khi khai canh dân làng Cảnh Dương đã chịu nhiều khốn cùng của nạn đao binh.

Có lẽ, Cảnh Dương là một trong rất ít nơi có Văn Miếu, có bia khoa mục, có Hội Văn như một Tao Đàn ở chốn làng quê. Sách Làng biển Cảnh Dương của tổ quốc Nguyễn Viễn viết: "Năm Quý Mùi (1643) Phúc Thái nguyên niên, ngày 19 tháng 11 mùa đông các cụ Nguyễn Văn An, Đỗ Phú Thanh, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Văn Lẫm, Phạm Văn Hữu, Phạm Văn Sảo vào châu Bố Chính, ngụ tại Cồn Dưa xã Thuần Thần, lúc đó 6 người kết làm anh em.

Lịch sử khai canh lập ấp của Cảnh Dương bắt đầu từ Cồn Dưa, Lòi Mắm. Khoán lệ của làng nghi rõ: "Chính sự phong hóa càng phải rộng mở mới tận thiện, tận mỹ. Thấy tình cảnh dân tình khốn khổ về nạn cống mắm Hàm Hương bèn nghĩ cách cứu dân làng khỏi vấn nạn thường niên. Vốn là người sáng dạ, tháo vát lại cần cù, chịu thương chịu khó, việc gì cũng lo tròn làm nên ông chủ rất chấp nhận.

Loại cá này chỉ lớn bằng cái vảy cau, có màu hồng trong, hàng năm chỉ xuất hiện trên hải phận này dăm ba tháng

Mắm Hàm Hương

Phạm Chân được cử giữ chức Án Sát tỉnh Thanh Hóa, Án sát tỉnh Lạng Sơn, có công dẹp bọn giặc phỉ phương Bắc. Khi thất thủ, không cam chịu rơi vào tay giặc, ông tử tiết giữ tấm lòng trung, được triều đình nhà Nguyễn đưa vào thờ ở Trung Nghĩa đường.

"Khoa trường là con đường của cử tử, ai đi thi hội văn hay trúng đệ nhất danh làng thưởng 100 quan; đệ nhị danh làng thưởng 50 quan". Từ ngày mắm phải tiến cung, dân Cảnh Dương phải chịu nhiều khổ cực trăm bề. Quần chúng Cảnh Dương đã gửi tấm lòng mình với người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trong việc đúc chiếc chuông đồng "Hồng chung cảnh viện" vào năm Cảnh Thịnh thứ 9(1801): "Ngôi vua bền vững/ Đạo vua xưng thịnh/ Nhật nhật tăng huy/ Pháp luân thường chuyển/ cõi trần thăng bình/ Nạn tai xoá sổ".

Làng Cảnh Dương bên dòng sông Loan. Dân làng Cảnh Dương cốt tử sống nhờ nghề chài lưới trên sông biển, chế biến và buôn bán các loại hải sản nhưng các vị tiên chỉ của làng tinh thần được việc học của con cháu nên trong các hương phả luôn đề cao việc giáo dục, đào tạo thiên tài, có chế độ khuyến khích người đỗ đạt.

Hàng trăm người con Cảnh Dương với hàng chục chiếc thuyền đã chuyên chở lương thực, vũ khí từ Thanh Nghệ Tĩnh vào Bình Trị Thiên, chiến trận Liên khu 5.

Lúc này dân mới đến 20 hộ từ đó mà đông lên". Khi giặc Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, Phạm Chân đã chống chọi ngoan cường bảo vệ thành Biên Hòa - Gia Định.

Rồi ông nói về thân phận của mình cũng như việc ông ra kinh đô là nhằm tìm cách xin triều đình miễn giảm việc cống tiến mắm Hàm Hương cho dân làng. Đến mùa cá Hàm Hương xuất hiện là cả làng lo bám biển đêm, năm nào cá về nhiều thì còn đủ, năm nào mất mùa dân làng ăn không ngon ngủ không yên. Nghe xong vị quan lớn cảm động về tấm lòng của ông cống Huy đối với xóm thôn vội bảo làm tờ biểu để ông tâu lên chúa thượng.

Ông trở nên người quán xuyến công việc, được viên quan tin tưởng giao cho nhiều việc kể cả việc soạn thảo tấu trình. Hồi đó, trong làng có ông Đỗ Đức Huy mới đậu Cống sinh. - Viên quan giục ông nói tiếp. Cách mệnh Tháng Tám thành công, Cảnh Dương có những đóng góp to lớn trong hai cuộc kháng chiến khờ của dân tộc. Nhận được tấu trình, được viên quan tả thêm, vua ưng ý bãi bỏ lệ cống mắm Hàm Hương hàng năm cho làng biển Cảnh Dương.

Một mình lặn lội ra tận Thăng Long trá hình làm người người tôi tớ đi ở cho một viên quan có thế lực trong triều. Năm nào mất mùa, không đủ số chỉnh mắm triều đình quy định thì quan huyện, quan tổng cho lính về bắt bớ, giam cầm, đánh đập trai tráng, người già trong làng. Nhờ khuyến học, khuyến tài mà trong các kỳ thi dưới triều Nguyễn từ Minh Mạng về sau làng Cảnh Dương có đến hơn 100 người đậu từ tú tài đến tấn sĩ.

Mùa xuân năm Ất Mùi (1655) các cụ Nguyễn An, Đỗ Phú Thanh. Nổi bật trong số đó có Phạm Chân sinh năm Giáp Tý (1804), năm Đinh Dậu (1837) đậu cử nhân, năm Mậu Tuất (1838) đậu tiến sĩ. Từ đó, mỗi lần được mùa cá dân làng lại làm mắm Hàm Hương nhưng không phải lo nộp cống chỉ cung tiến vua một đôi chỉnh mắm ngon gọi là tấm lòng của dân làng còn lại đem đi bán trong nam ngoài bắc, đời sống của dân làng bởi vậy mà khấm khá hơn.

Có lẽ rất ít làng xã khi mới khai canh đã bắt tay vào lập khoán lệ, hương ước xây dựng quê hương từ tháng 3 năm Kỷ Hợi (1659). Tiếng khóc than, giận dỗi ran dậy cả làng xóm. Sau Phạm Chân có Nguyễn Phùng Dực đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Dậu (1849), nổi danh là người tài ba, cụ Dực chuyên tâm cho ngành giáo dục, mở trường lớp mong đào tạo được nhiều người đức tài cho quê hương, xứ sở.

Một trong tám bát danh hương của Quảng Bình, Cảnh Dương còn biết đến là Làng đấu tranh kiểu mẫu, một vùng đất oắt chiến công trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứ nước, vừa sinh sản vừa đương đầu, Cảnh Dương còn tổ chức đội thuyền tải khí giới vào Quân khu Trị Thiên.